Hóa trị liều cao là gì? Các công bố khoa học về Hóa trị liều cao

Hóa trị liều cao là một thuật ngữ trong lĩnh vực y học, có nghĩa là sử dụng một liều dược phẩm hoặc chất cung cấp một lượng lớn hơn bình thường cho một bệnh nhâ...

Hóa trị liều cao là một thuật ngữ trong lĩnh vực y học, có nghĩa là sử dụng một liều dược phẩm hoặc chất cung cấp một lượng lớn hơn bình thường cho một bệnh nhân hoặc một người dùng. Hóa trị liều cao thường được sử dụng trong điều trị ung thư, nơi mục tiêu là tiêu diệt các tế bào ung thư, thậm chí nếu điều này gây tổn thương đến các tế bào khỏe mạnh xung quanh. Hóa trị liều cao cũng có thể được sử dụng trong một số loại thuốc khác như kháng sinh hoặc steroid, nhằm tăng hiệu quả điều trị hoặc kiểm soát tình trạng bệnh.
Hóa trị liều cao trong điều trị ung thư được sử dụng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Thông thường, một liều dược phẩm được tính toán dựa trên khối lượng cơ thể, tình trạng sức khỏe và loại ung thư của bệnh nhân. Tuy nhiên, trong hóa trị liều cao, liều dược phẩm được cung cấp với một lượng lớn hơn hẳn so với liều thông thường.

Lý do sử dụng hóa trị liều cao là vì một số dạng ung thư có thể trở nên kháng thuốc sau khi được điều trị bằng liều thông thường. Hóa trị liều cao có thể làm tăng khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư kháng thuốc và ngăn chặn sự phát triển của chúng.

Tuy nhiên, hóa trị liều cao cũng gây tổn thương đến các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể. Điều này có thể dẫn đến các tác dụng phụ nghiêm trọng, như suy tủy, suy thận, viêm gan và tổn thương tim. Vì vậy, quá trình hóa trị liều cao cần được giám sát chặt chẽ bởi các chuyên gia y tế.

Ngoài điều trị ung thư, hóa trị liều cao cũng được sử dụng trong một số loại thuốc khác như kháng sinh và steroid. Kháng sinh có thể được sử dụng với liều cao để tiêu diệt các vi khuẩn kháng thuốc, trong khi steroid có thể được sử dụng để giảm viêm và kiểm soát các bệnh lý thông qua ức chế miễn dịch. Tuy nhiên, sử dụng hóa trị liều cao cho các loại thuốc này cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Trong hóa trị liều cao, liều dược phẩm được cung cấp với một liều lượng lớn hơn so với các liều thông thường. Điều này nhằm tạo ra một nồng độ cao hơn của dược phẩm trong cơ thể, từ đó có thể tiêu diệt hoặc điều trị hiệu quả các bệnh nhân có mức độ nhiễm ung thư cao. Hóa trị liều cao có thể có một số biến thể, bao gồm:

1. Hóa trị liều cao duy nhất (HDT): Đây là phương pháp điều trị ung thư bằng cách đưa cho bệnh nhân một liều cực kỳ cao của một dược phẩm. Mục tiêu là tiêu diệt hoặc kiểm soát các tế bào ung thư hiệu quả hơn so với các liều thông thường. HDT thường được sử dụng trong điều trị ung thư máu, như ung thư bạch cầu cấp tính và ung thư tế bào biểu mạch.

2. Hóa trị liều cao kết hợp với cấy ghép tủy xương: Đây là phương pháp sử dụng liều dược phẩm cao kết hợp với quá trình cấy ghép tủy xương. Quá trình này nhằm thay thế tủy xương bị tổn thương bằng tủy xương khỏe mạnh từ người khác hoặc từ bản thân bệnh nhân. Hóa trị liều cao kết hợp với cấy ghép tủy xương thường được sử dụng trong điều trị ung thư bạch cầu, ung thư tủy, và một số loại ung thư máu khác.

3. Hóa trị liều cao chống lại ung thư tái phát: Đây là phương pháp sử dụng một liều dược phẩm cao để ngăn chặn hoặc hạn chế sự tái phát của ung thư sau quá trình điều trị ban đầu. Hóa trị liều cao này được sử dụng để tiêu diệt hoặc kiểm soát các tế bào ung thư nhỏ không thể được phát hiện bằng các kỹ thuật kiểm tra thông thường.

Tuy hóa trị liều cao có thể mang lại nhiều lợi ích trong việc tiêu diệt tế bào ung thư khó điều trị, nhưng nó cũng có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng. Vì vậy, quá trình này cần được thực hiện dưới sự giám sát cẩn thận của các chuyên gia y tế chuyên về ung thư.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hóa trị liều cao":

Hạn chế trong điều trị giữa bệnh nhân được phân ngẫu nhiên với phương pháp buprenorphine/naloxone so với methadone trong nghiên cứu đa trung tâm. Dịch bởi AI
Addiction - Tập 109 Số 1 - Trang 79-87 - 2014
Tóm tắtMục tiêu

Khảo sát các đặc điểm của bệnh nhân và thuốc liên quan đến mức độ giữ lại và sử dụng opioids bất hợp pháp tiếp tục trong điều trị methadone (MET) so với buprenorphine/naloxone (BUP) đối với sự lệ thuộc opioids.

Thiết kế, bối cảnh và đối tượng tham gia

Phân tích thứ cấp này bao gồm 1267 cá nhân lệ thuộc opioids tham gia trong chín chương trình điều trị opioids từ năm 2006 đến 2009 và được phân ngẫu nhiên để nhậnBUPhoặcMETtrong 24 tuần.

Phương pháp đo lường

Các phân tích bao gồm các thước đo đặc điểm bệnh nhân tại thời điểm nền (nhân khẩu học; sử dụng rượu, thuốc lá và ma túy bất hợp pháp; sức khỏe tâm thần và thể chất tự đánh giá), liều lượng thuốc và kiểm tra nước tiểu trong quá trình điều trị, việc hoàn thành điều trị và số ngày trong quá trình thử nghiệm 24 tuần.

Kết quả

Tỷ lệ hoàn thành điều trị là 74% choMETso với 46% choBUP(P< 0.01); tỷ lệ trong những người tham giaMETtăng lên 80% khi liều tối đaMETđạt hoặc vượt quá 60 mg/ngày. VớiBUP, tỷ lệ hoàn thành tăng tuyến tính với liều cao hơn, đạt 60% với liều 30-32 mg/ngày. Trong số những người còn lại trong điều trị, kết quả dương tính với opioids trong nước tiểu thấp hơn đáng kể [tỷ lệ odds (OR) = 0.63, khoảng tin cậy 95% (CI) = 0.52–0.76,P< 0.01] trong nhómBUPso với nhómMETtrong 9 tuần đầu tiên của điều trị. Liều thuốc cao hơn có liên quan đến việc sử dụng opiate thấp hơn, đặc biệt là trong nhóm bệnh nhânBUP. Mô hình nguy hiểm tương đối của Cox tiết lộ các yếu tố liên quan đến bỏ dở điều trị: (i)BUP[so vớiMET, tỷ lệ nguy hiểm (HR) = 1.61,CI = 1.20–2.15], (ii) liều thuốc thấp (<16 mg choBUP, <60 mg choMET;HR = 3.09,CI = 2.19–4.37), (iii) sự tương tác của liều và điều kiện điều trị (những người có liềuBUPcao hơn có nguy cơ bỏ dở cao hơn 1.04 lần so với những người có liềuMETthấp hơn, và (iv) trẻ tuổi hơn, gốc Tây Ban Nha và sử dụng heroin hoặc các chất khác trong quá trình điều trị.

Kết luận

Việc cung cấp methadone dường như liên quan đến việc giữ bệnh nhân điều trị tốt hơn đối với sự phụ thuộc opioids so với buprenorphine, như cũng liên quan đến việc cung cấp liều cao hơn của cả hai loại thuốc. Cung cấp buprenorphine liên quan đến việc sử dụng opioids bất hợp pháp ít hơn tiếp tục.

#Opioid lệ thuộc #Methadone #Buprenorphine/Naloxone #Thuốc lá #Heroin #Hoành hành #Điều trị đa trung tâm #Liều thuốc #Khuyến cáo điều trị.
Mitoxantrone so với daunorubicin trong liệu pháp hóa trị khởi phát-củng cố - giá trị của cytarabine liều thấp trong duy trì tình trạng lui bệnh, và đánh giá các yếu tố tiên lượng trong bệnh bạch cầu myeloid cấp ở người cao tuổi: báo cáo cuối cùng. Tổ chức châu Âu về Nghiên cứu và Điều trị Ung thư và Nhóm Hợp tác Huyết học - Ung thư Đan Mạch-Bỉ Hovon. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 16 Số 3 - Trang 872-881 - 1998
MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP

Tối ưu hóa liệu pháp khởi phát lui bệnh và điều trị sau lui bệnh ở người cao tuổi mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp (AML) là chủ đề của một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Liệu pháp hóa trị khởi phát được so sánh giữa daunomycin (DNR) 30 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3 so với mitoxantrone (MTZ) 8 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3, cả hai đều kết hợp với cytarabine (Ara-C) 100 mg/m2 vào các ngày 1 đến 7. Sau khi đạt tình trạng lui bệnh hoàn toàn (CR), bệnh nhân nhận một chu kỳ hóa trị DNR hoặc MTZ bổ sung và sau đó đủ điều kiện tham gia một phân bổ ngẫu nhiên thứ hai giữa tám chu kỳ Ara-C liều thấp (LD) 10 mg/m2 tiêm dưới da mỗi 12 giờ trong 12 ngày mỗi 6 tuần hoặc không điều trị thêm.

KẾT QUẢ

Tổng cộng có 242 bệnh nhân được phân bổ ngẫu nhiên vào DNR và 247 vào MTZ. Độ tuổi trung vị của cả hai nhóm nghiên cứu là 68 tuổi. Bệnh AML thứ phát được ghi nhận ở 26% và 25% bệnh nhân ở mỗi nhánh. Xác suất đạt CR cao hơn (P = .069) với MTZ (47%) so với DNR (38%). Thời gian trung vị của tình trạng hạ bạch cầu trung tính là 19 (DNR) và 22 ngày (MTZ). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn với liệu pháp MTZ liên quan đến việc giảm tỷ lệ kháng thuốc hóa trị (32% so với 47%, P = .001). Với thời gian theo dõi trung vị 6 năm, tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm (DFS) là 8% cho mỗi nhóm. Dự đoán sống còn tổng thể không khác biệt giữa các nhóm (6% so với 9% sau 5 năm). Tình trạng hoạt động kém tại thời điểm chẩn đoán, số lượng bạch cầu cao, tuổi cao, AML thứ phát và sự hiện diện của các bất thường về di truyền tế bào đều có tác động tiêu cực đến sự sống sót. AML thứ phát và di truyền tế bào bất thường dự đoán thời gian CR ngắn hơn. Trong số những người phản ứng hoàn toàn, 74 bệnh nhân có thể đánh giá được chỉ định Ara-C và 73 bệnh nhân không điều trị thêm. Tỷ lệ DFS được công bố có ý nghĩa kéo dài hơn (P = .006) cho nhóm điều trị Ara-C (13% [SE = 4.0%] sau 5 năm) so với nhóm không điều trị (7% [SE = 3%]), nhưng tỷ lệ sống còn tổng thể thì tương tự (P = .29): 18% (SE = 4.6%) so với 15% (SE = 4.3%). Phân tích tổng hợp về giá trị của liệu pháp Ara-C sau lui bệnh xác nhận các kết quả này.

KẾT LUẬN

Ở những bệnh nhân cao tuổi chưa được điều trị trước đó với AML, liệu pháp khởi phát MTZ tạo ra tỷ lệ CR có phần tốt hơn so với chế độ có DNR, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đối với thời gian lui bệnh và sống sót. Ara-C trong duy trì có thể kéo dài DFS, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót.

Nghiên cứu ảnh hưởng của bột khoáng sericit đến tính chất và quá trình chế tạo vật liệu cao su thiên nhiên
Vietnam Journal of Chemistry - Tập 47 Số 6 - 2012
The using sericite mineral S1 and S2 are supplied by the laboratory on mineral materials of IMS. The effect of sericite on the compouding, processing and properties of cured natural rubber (NR) is demonstrated. The use of sericite as a filler for NR lowers the viscosity and therefore aids its compouding. The surface modified sericite by aminopropyltriethoxysilan accelerates curing process and reduces the time required to compoud products. The results indicate that sericite can be successful used in the manufacture of NR products. The cured NR with 20% of surface modified sericite S1 gives the best mechanical properties.
Bước đầu nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn muộn
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 125-128 - 2014
Mục tiêu: Bước đầu nghiên cứu sự an toàn của hóa trị liều cao kết hợp với điều trị trúng đích với sự hỗ trợ của tế bào gốc tạo máu tự thân trong bệnh lý ung thư buồng trứng giai đoạn muộn. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả trường hợp bệnh. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân Nguyễn Thị S. được điều trị hóa chất liều cao kết hợp liệu pháp trúng đích tại khoa huyết học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Huế. Kết quả: Bệnh nhân được hóa trị liều cao bằng phác đồ paclitaxel và carboplatine với AUC 12 và 16, kết hợp avastin. Sau 2 chu kì liều cao với carboplatin tăng dần chưa ghi nhận có biến chứng nặng. Kết luận: Hóa trị liều cao kết hợp liệu pháp trúng đích trong ung thư buồng trứng giai đoạn muộn là phương pháp điều trị khá an toàn.
#ung thư buồng trứng #hóa trị liều cao #paclitaxel #carboplatin
UNG THƯ PHỔI TẾ BÀO NHỎ (SCLC) - BÁO CÁO CA BỆNH VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Ung thư phổi tế bào nhỏ (Small Cell Lung Cancer - SCLC) là một căn bệnh nguy hiểm, chiếm khoảng 14% tổng số các loại ung thư phổi. Tại Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 31.000 bệnh nhân được chẩn đoán SCLC. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm nói chung vẫn ở mức thấp <7%, và hầu hết bệnh nhân chỉ sống được 1 năm hoặc ít hơn sau khi được chẩn đoán. Không giống như ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), trong đó những tiến bộ lớn đã được thực hiện bằng cách sử dụng các liệu pháp nhắm trúng đích, đến nay vẫn chưa có loại thuốc nhắm trúng đích được chấp thuận cho SCLC. Các rào cản đáng kể đối với sự tiến bộ trong SCLC bao gồm: (1) thiếu các phương thức phát hiện sớm; (2) mô khối u hạn chế để nghiên cứu dịch mã (cấu hình phân tử của DNA, RNA và / hoặc sự thay đổi protein) do các mẫu sinh thiết chẩn đoán thường là nhỏ và hiếm có phẫu thuật cắt bỏ trong điều trị; (3) bệnh tiến triển nhanh với sự hiểu biết còn ít về các cơ chế kháng điều trị. Chúng tôi báo cáo ca bệnh SCLC được chẩn đoán xác định và điều trị tại bệnh viện phổi Trung ương. Phần bàn luận xem xét tình trạng hiện tại về chẩn đoán và điều trị SCLC, cập nhật những tiến bộ gần đây trong hiểu biết về sinh học bệnh cơ bản và các cơ hội để nâng cao phương pháp điều trị cho bệnh nhân SCLC.
#Ung thư phổi; Ung thư phổi tế bào nhỏ; hoá trị liệu; miễn dịch trị liệu; xạ trị; điều trị đích
Hóa chất liều cao và cấy ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư buồng trứng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 2 - Trang 10-16 - 2016
Ung thư buồng trứng chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu trong ung thư phụ khoa, khoảng 80% bệnh nhân có đáp ứng trên nền platin. Phác đồ chuẩn hiện nay là paclitaxel kết hợp với carboplatin có tỷ lệ đáp ứng khoảng 75%. Do độc tính thần kinh và giảm tiểu cầu, các nỗ lực gia tăng thêm liều paclitaxel đang gây nhiều tranh cãi. Đường dùng trong khoang phúc mạc có cường độ liều được tăng lên gấp 20 lần . Trong trường hợp tái phát và đề kháng thuốc, hóa trị liều cao trên nền Platinum cho thấy có sự cải thiện về thời gian sống còn trung bình nói chung. Đối với điều trị ban đầu bệnh lý tiến triển, phác đồ 6 chu kỳ đầu với liều thông thường cisplatin và cyclophosphamide, tiếp theo là liều cao cisplatin, carboplatin, etoposide cho tỷ lệ khỏi bệnh hoàn toàn là 42%. Cách tiếp cận thứ hai là dùng ngay nhiều đợt hóa trị liều cao với sự hỗ trợ tế bào gốc cũng cho thấy kết quả khích lệ. Với những tiến bộ về huyết học trong hỗ trợ tạo huyết, bao gồm sự phát triển của các yếu tố kích thích dòng tế bào (CSFs) và cấy ghép tế bào gốc máu ngoại vi cho phép tăng liều hóa chất so với điều trị cơ bản. Các nghiên cứu về hóa trị liều cao với carboplatin và paclitaxel được hỗ trợ bởi cấy ghép tế bào gốc tạo máu và các cytokine ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát hoặc ở giai đoạn muộn cho thấy có sự cải thiện rõ về tỷ lệ đáp ứng với điều trị lên đến 89% (SWOG 9106), thời gian trung bình sống còn tổng thể (OS) là 18 tháng và tỷ lệ sống còn lúc 60 tháng là 14%.
#Hóa trị liều cao #cấy ghép tế bào gốc #ung thư buồng trứng
Điều trị đơn trị liệu dài hạn thành công bằng rituximab ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lymphô mạn tính dòng tế bào B: báo cáo trường hợp Dịch bởi AI
Journal of Medical Case Reports - Tập 2 - Trang 1-5 - 2008
Điều trị bệnh bạch cầu lymphô mạn tính dòng tế bào B phụ thuộc mạnh vào phân độ lâm sàng do tiến triển lâm sàng của bệnh này rất đa dạng. Chúng tôi báo cáo trường hợp của một bệnh nhân 62 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu lymphô mạn tính dòng tế bào B mới, không có đáp ứng với nhiều phác đồ hóa trị khác nhau bao gồm chlorambucil, fludarabine và cyclophosphamide, đồng thời phát triển tình trạng hạ bạch cầu trung tính và giảm tiểu cầu nghiêm trọng kèm theo các nhiễm trùng đe dọa tính mạng. Hóa trị bổ sung trở nên không khả thi do độc tính đối với tủy xương. Bệnh nhân đã được điều trị bằng 600 mg/m2 rituximab hàng tuần, tiếp theo là tám đợt điều trị hai tuần một lần và sau đó là liệu pháp duy trì lâu dài, đạt được sự thuyên giảm gần như hoàn toàn các triệu chứng và kiểm soát bệnh. Sau khi kháng lại hóa trị tiêu chuẩn bằng chlorambucil và fludarabine, bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lymphô mạn tính dòng tế bào B đã được điều trị thành công bằng rituximab.
#bạch cầu lymphô mạn tính #dòng tế bào B #rituximab #hóa trị #điều trị duy trì
Tác động của liệu pháp dựa trên Rituximab sau biến đổi mô học đối với liệu pháp liều cao và ghép tế bào gốc tự thân trong ung thư lympho biến đổi nang Dịch bởi AI
Blood - Tập 118 - Trang 4478 - 2011
Tóm tắt

Tóm tắt 4478

Nền tảng:

Liệu pháp tối ưu sau khi ung thư lympho nang chuyển biến thành ung thư lympho B lớn lan tỏa (DLBCL) vẫn chưa được biết đến. Hầu hết dữ liệu từ các nghiên cứu hồi cứu và nghiên cứu giai đoạn II cho thấy lợi ích tiềm tàng của liệu pháp liều cao và ghép tế bào gốc tự thân (HDT-ASCT) cho bệnh nhân bị ung thư lympho chuyển biến (TL). Việc bổ sung rituximab vào hóa trị liệu CHOP có thể cải thiện thời gian sống sót ở TL. Tuy nhiên, tác động của liệu pháp dựa trên rituximab trước đó đối với hiệu quả của ghép tế bào gốc tự thân (ASCT) sau này trong TL vẫn chưa được biết.

#ung thư lympho #rituximab #ghép tế bào gốc tự thân #liệu pháp liều cao #hóa trị liệu
Tối ưu hóa đa phản hồi trong quá trình khí hóa vỏ trái ca cao (Theobroma cacao) và hiệu suất của nó trong động cơ đa nhiên liệu Dịch bởi AI
Biomass Conversion and Biorefinery - Tập 13 - Trang 10311-10326 - 2022
Việc thay thế một phần nhiên liệu thông thường trong động cơ đốt trong bằng nhiên liệu sinh khí từ sinh khối là một trong những lựa chọn tốt nhất để thực hiện sinh khối trong sản xuất năng lượng phân tán. Trong nghiên cứu này, một động cơ đốt nén, thường được sử dụng trong sản xuất năng lượng quy mô nhỏ, đã được thử nghiệm hoạt động trên dầu diesel và khí sinh ra từ vỏ trái ca cao (CPH). Động cơ đã được điều chỉnh để hoạt động với chế độ đa nhiên liệu cũng như nhiều tỉ số nén khác nhau. Thiết kế tổng hợp trung tâm đã được sử dụng để tối ưu hóa các thông số vận hành và hiệu suất. Tại tỉ số nén 18, các thông số hiệu suất như hiệu suất tổng quát (BTE) và tỷ lệ nhiên liệu tiêu thụ (DRR) đều cao, trong khi đó, lượng nhiên liệu tiêu thụ ước lượng (BSFC) và tiêu thụ năng lượng đặc trưng (SEC) đều thấp. Trong chế độ đa nhiên liệu, tổng lượng dầu diesel được thay thế là 72.57%. Hơn nữa, hiệu suất nhiệt phanh (BTE) đạt 22.18% và 27.17% cho tỉ số nén 12 và 18, tương ứng. Trong điều kiện tối ưu, lượng phát thải CO, NOx, HC và khói lần lượt là 0.17 vol%, 250.06 ppm, 19.94 ppm và 22.81%. Hiệu suất của động cơ cho thấy rằng CPH có thể là nguyên liệu đầu vào tiềm năng để cung cấp nhiên liệu khí sạch hơn cho hoạt động đa nhiên liệu. Hơn nữa, dự đoán từ nghiên cứu cho thấy rằng phương pháp bề mặt phản hồi có thể là một phương pháp thích hợp để đánh giá các điều kiện làm việc tối ưu của động cơ đa nhiên liệu.
#năng lượng sinh khối #động cơ đốt trong #khí hóa #vỏ trái ca cao #tỉ số nén #nhiên liệu đa chao
Những cân nhắc an toàn cho Nhân viên y tế tham gia Phẫu thuật cắt bỏ tế bào và Hóa trị liệu trong thời kỳ phẫu thuật Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 7 - Trang 249-257 - 2016
Phương pháp điều trị kết hợp phẫu thuật cắt bỏ tế bào (CRS) và hóa trị liệu tại chỗ trong điều kiện nhiệt độ cao (HIPEC) đã được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới để quản lý những bệnh nhân đã chọn bị di căn bụng từ nhiều loại ung thư khác nhau. Phẫu thuật cắt bỏ tế bào được thực hiện với mục tiêu loại bỏ hoàn toàn bệnh lý có thể nhìn thấy và kết hợp với hóa trị liệu trong thời kỳ phẫu thuật (POC) dưới dạng HIPEC có hoặc không có EPIC (hóa trị liệu tại chỗ sớm sau phẫu thuật) nhằm xử lý bệnh lý vi thể còn sót lại. Những phương pháp điều trị này liên quan đến việc sử dụng các loại thuốc gây độc tế bào trong phòng mổ hoặc tại đơn vị chăm sóc đặc biệt, nơi mà chúng thường không được sử dụng, và làm cho nhân viên y tế tham gia vào việc điều trị có nguy cơ tiếp xúc với các chất độc. CRS được thực hiện với dụng cụ điện cao áp tạo ra một lượng lớn khói phẫu thuật, được hít vào bởi những nhân viên liên quan và có thể gây ra các mối nguy về sức khỏe. Bài báo này đề cập đến các biện pháp an toàn cần thực hiện trong quá trình thực hiện CRS và POC.
#Phẫu thuật cắt bỏ tế bào #hóa trị liệu tại chỗ trong điều kiện nhiệt độ cao #di căn bụng #biện pháp an toàn #nhân viên y tế
Tổng số: 50   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5